Top 16 bài Phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất – VnDoc.com

Rate this post

VnDoc xin giới thiệu tới bạn đọc Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà để bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu phân tích người lái đò sông Đà nhé. Tài liệu sẽ giúp các bạn học sinh nắm chắc nội dung bài học Ngữ văn 12 một cách đơn giản nhất. Mời thầy cô và các bạn học sinh cùng theoi dõi.

1. Dàn ý Phân tích Người lái đò sông Đà

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà.

II. Thân bài

1. Hình tượng con sông Đà

a. Con sông Đà hung bạo

  • Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp:

Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.

Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.

Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.

→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.

  • Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:

Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…

Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.

  • Cảnh ở quãng Tà Mường Vát:

Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.

Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.

Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.

→ Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.

  • Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò:

Một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một.

Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,….

Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.

Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.

Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá…

→ Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.

Sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô giác mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng, không chỉ hung hãn mà nó còn rất xảo huyệt, mưu ma để lừa người lá đò vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử.

Hình tượng con sông Đà hiện lên thật kì vĩ, hiểm trở, dữ dội và rất hung bạo… Sông Đà biểu tượng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.

b. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình

Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”

“Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”. Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”

→ Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.

→ Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.

  1. Hình ảnh người lái đò

– Về lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.

– Ngoại hình: “tay lêu nghêu … chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.

– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo..

– Tài năng và tâm hồn:

Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ… những luồng nước”…

Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo…”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác…”

Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà

2. Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà

Phân tích người lái đò sông Đà – mẫu 1

Nguyễn Tuân là một người con của đất thủ đô Hà Nội, sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học. Con người ông ưa thích “chủ nghĩa xê dịch”, với lối sống, lối viết phóng khoáng, vượt ra khỏi khuôn khổ của thời đại, quan niệm “đời là một trường du hí”, ông viết văn trước hết là để khẳng định cái tôi bản ngã của mình.

Trong sáng tác, Nguyễn Tuân cho rằng lao động là một hình thức nghệ thuật, nghiêm túc thậm chí người viết phải chịu “khổ hạnh” mới có thể cho ra đời những tác phẩm có giá trị, có lẽ vì quan điểm đặc sắc này mà người ta cho rằng: “Cái tôi của Nguyễn Tuân chính là một định nghĩa đích thực về nghệ sĩ”.

Nói đến đặc điểm của nhà văn này người ta vẫn thường khắc ghi mấy chữ tài hoa, uyên bác, ông không chỉ có biệt tài văn chương, bậc kỳ tài trong thể loại bút ký mà còn là người có am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực, từ đó đem đến cho tác phẩm của mình những góc nhìn mới mẻ và toàn diện khiến độc giả không khỏi trầm trồ kinh ngạc vì cách sử dụng câu từ điệu nghệ và vốn tri thức phong phú của ông.

Nguyên Tuân có nhiều sáng tác phân chia ra làm hai giai đoạn, trong đó các tác phẩm sau cách mạng tháng tám nổi bật nhất chính là tùy bút Sông Đà (1960), được viết trong chuyến thực địa về miền Tây Bắc xa xôi của tác giả. Người lái đò sông Đà là đoạn trích được lược trong tập tùy bút này với hai hình tượng trung tâm là dòng sông Đà và người lái đò trên sông.

Lời đề từ Nguyễn Tuân cũng tỉ mỉ soi xét, mượn của Phan Huy Chú câu “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”, để nói về cái quái tính của con sông này, bao dòng sông khác chọn xuôi về hướng đông, chỉ riêng sông Đà chọn cho mình lối chảy ngược ngạo, khác thường về phương Bắc.

Có lẽ chính cái cá tính thích độc lai độc vãng, riêng mình ta một lối này có gì đó tương đồng với cái tôi đậm chất “ngông” của Nguyễn Tuân thế nên khi viết ta có cảm giác Nguyễn Tuân rành rọt và thiết tha với con sông này lắm. Mượn thơ của Phan Huy Chú chưa đủ, nhà văn còn mượn thêm một dòng thơ của thi sĩ người Tây Ban Nha rằng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” gợi ra cái vẻ đẹp phóng khoáng thơ mộng của Đà giang bên cạnh cái vẻ ngang tàng, hùng vĩ vốn có bao đời nay của một dòng sông miền rừng núi Tây Bắc.

Xem thêm:  Văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (Sơ đồ tư

Sông Đà đã hiện lên trong tác phẩm với một dáng vẻ rất sống động, tựa một sinh thể, cũng có linh hồn, có nội tâm có cả cuộc đời, với xuất xứ từ tận Trung Quốc xa xôi, chảy qua hơn 400km với tìm về được biên giới nước ta, rồi nhập tịch tại Mường Tè, Lai Châu, mang tên độc một chữ “Đà”.

Bỗng người ta có cái liên tưởng về cuộc đời đầy sóng gió của một kiếp nhân sinh, thế nên khi đến dải đất hình chữ S này, sông Đà mới bộc lộ cái bản tính khó hiểu, đỏng đảnh làm mình làm mẩy với cả vùng Tây Bắc, lúc thì hung bạo, dữ dội như đang giận dỗi gì, lúc lại dịu dàng, nên thơ lãng mạn vô cùng.

Đầu tiên ấy là cái quái tính hung bạo, hùng vĩ, một dòng sông, đổ dọc Tây Bắc cái nhiều nhất ở khúc thượng nguồn có lẽ là ghềnh và thác, Nguyễn Tuân có chuyến đi thực nghiệm dài và cũng lại là người ưa cái “khổ hạnh” tìm tòi khai thác, thế nên sông Đà trong tác phẩm mới có được những cảnh đắt giá, khiến người ta chỉ đọc thôi nhưng cũng đủ thấy cái tầm vóc, cảm giác rét lạnh giữa lòng sông.

Nguyễn Tuân miêu tả khúc sông này với những hình ảnh rất hấp dẫn “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, rồi thì “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ lại “chẹt lòng sông như yết hầu”, sinh động với những “con nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”, tạo cảm giác”đang màu hè mà cũng cảm thấy lạnh”.

Tất cả những hình ảnh ấy, khiến độc giả nghĩ dòng sông tựa như một nhân vật bí hiểm, lạnh lùng, đang dùng đôi mắt sắc bén cùng cái khí thế âm u để quan sát, nghiên cứu tất cả những con người bước vào giữa lòng sông, mang đến áp lực vô hình và khó lường. Nhưng đó mới chỉ là khúc dạo đầu cho cái quái tính ghê gớm của con sông này, người ta phải thực sự thấy nó khủng khiếp và hung tợn khi đọc những âm thanh mà Nguyễn Tuân đã vắt kiệt vốn từ Việt của mình để chế ra.

Quãng mặt ghềnh Hát Loóng là cảnh “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Rồi quãng Tà Mường Vát dưới Sơn La thì lại có cảnh nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.

Hoặc có khúc quái dị, với điệu bộ “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, khiến người ta phải dè chừng, khiếp sợ nắm chắc tay chèo hơn nữa.

Đến chỗ đổ thác dường như dòng sông biến thành một loài quái thú, nước chỗ ấy “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”. Làm người ta mường tượng ra cảnh một con thủy quái đang quẫy mình sôi nổi, giận dữ, hoặc là đói mồi hoặc là kẻ nào đã lỡ tay chọc vào chiếc vảy ngược mới khiến lồng lộn cả lên như thế.

Chung quy lại tiếng nước trong miêu tả của Nguyễn Tuân quả thực là hấp dẫn và thu hút vô cùng, nó làm nổi bật hẳn lên cái vẻ hầm hố, khó chịu của con sông khúc thượng nguồn này.

Dĩ nhiên diện mạo hung bạo, hùng vĩ của sông Đà không chỉ dừng lại ở bấy nhiêu ấy mà còn ấn tượng hơn với hình ảnh những cái hút nước “đặc sản” của những dòng sông có độ dốc lớn như sông Đà.

Trong lăng kính của Nguyễn Tuân những hút nước ấy được miêu tả bằng nhiều hình ảnh gợi sự liên tưởng sâu rộng cho người đọc tỉ như những hình ảnh rất độc lạ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, hay “mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh”, rồi lại tựa “Cốc pha lê nước khổng lồ”, rồi thì “Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải”,…

Qua những hình ảnh gợi cảm ấy người ta thấy sông Đà có những cái xoáy nước rất mỹ lệ, rất đẹp trong trẻo, xanh ngắt thế nhưng cũng ẩn chứa hàng vạn mối nguy hiểm cho kẻ nào lỡ may sảy chân rơi vào đấy thì chỉ có tan xác. Thật ứng với câu “càng đẹp càng độc” của cổ nhân bao đời.

Và có lẽ tác giả sẵn có máu điện ảnh trong người, thế nên ông lại càng muốn tác phẩm của mình thêm nổi bật và độc giả có được góc nhìn độc đáo bằng việc vẽ ra viễn cảnh một anh quay phim liều mạng nào đó đặt cả mình cả máy vào xoáy nước được bắt trọn cái khoảnh khắc quay tít như chiếc gậy đánh phèn của cái hút nước. Quả thực khiến người đọc phải rùng mình và không khỏi thán phục về cái cách Nguyễn Tuân đưa điện ảnh vào văn của mình.

Cái diện mạo của dòng sông Đà cáu bẳn, khó tính này có lẽ được thể hiện sinh động hơn cả là trong những hình ảnh về đá và những cái “trùng vi thạch trận” mà binh pháp “thần sông thần đá” đã bày ra để nuốt chửng bất kỳ kẻ nào dám khiêu khích.

Với những hình ảnh sinh động của thứ đá mà Nguyễn Tuân nói rằng đã mai phục ở đây hàng nghìn năm, trực chờ tên liều mạng nào đi qua với bộ dạng sốt sắng “nhổm cả dậy” để vồ lấy thuyền, rồi thì dáng vẻ “ngỗ ngược”, diện mạo “nhăn nhúm”, “méo mó”, tư thế đứng, ngồi, nằm, nghiêng,… đều đủ cả, khiến người ta phải kiêng dè trước cái khí thế mà chúng tỏa ra.

Thêm nữa đá ở đây đâu có dễ dàng cho ai lọt lưới, chúng chọn cho mình riêng một nhiệm vụ, đứa thì dàn hàng ngang, đứa thì đòi đánh giáp lá cà, lại có cả đứa giả bộ lộ sơ sở, để những đứa còn lại phục kích đánh úp cho thuyền bè không kịp trở tay.

Thế mới thấy lũ đá này ghê gớm thế nào, và chúng không chỉ dàn trận mà còn bày cả “trùng vi thạch trận” có tới 3 lớp, lớp sau càng nhiều cửa tử, ít cửa sinh, luồng sống hẹp, luồng chết dày, dường như là không để cho kẻ địch một cơ hội sống còn nào cả. Không biết là dòng sông này khó ở, thích trêu ngươi hay là đã mang thù hằn truyền kiếp gì với con người ở đây mà lại mang một diện mạo khủng khiếp, ngươi sống ta chết như vậy.

Thế nhưng, khác hẳn với cái vẻ hung dữ, thô lỗ, cục cằn nơi thượng nguồn thì vùng hạ lưu người ta lại phải nhìn sông Đà bằng một đôi mắt khác. Dòng sông hiện lên với dáng vẻ hiền hòa, từ điểm nhìn cao và xa trên tàu bay, dòng chảy như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, mềm mại trải khắp vùng Tây Bắc.

Nhìn gần hơn thì nó lại mang dáng vẻ của một mỹ nhân xinh đẹp, yêu kiều với dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, quyến rũ và hấp dẫn vô cùng.

Bên cạnh vẻ mềm mại dịu dàng người ta còn thấy một sông Đà với nhiều dáng vẻ với những gam màu nổi bật, lãng mạn theo mùa, ví như “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô”, còn “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

Nguyễn Tuân yêu và gắn bó với quê hương đất nước, đặc biệt là với con sông Đà ngược ngạo, khó chiều này, ông xem dòng sông ấy như là một “cố nhân” để liên tưởng đến “màu nắng tháng ba Đường thi” trong thơ Lý Bạch với câu thơ nổi tiếng “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, tức là màu hoa nở rực rỡ mùa xuân gắn với sương khói mặt sông khiến người ta không khỏi thổn thức một nỗi niềm thân thuộc.

Ấy rồi có lúc sông Đà lại như là “người tình chưa quen biết” trong cái cảnh nương ngô, đàn hươu, bờ sông hoang dại với nỗi niềm cổ tích thuở xa xưa,… khiến lữ khách xuôi dòng xúc động.

Đó là dòng sông, nhưng trong trích đoạn Người lái đò sông Đà, hình tượng chính yếu nổi bật nhất phải là hình ảnh ông lái đò mới đúng. Nguyễn Tuân khúc này chắc cũng có nhiều phần tương tự đại thi hào Nguyễn Du, sông Đà là Thúy Vân còn người lái đò chính là Thúy Kiều, lấy cái dữ dội, hùng vĩ của dòng sông để làm nổi bật lên dáng vẻ hùng dũng trong lao động của con người.

Ông lái đò quả thật xứng đáng khi nhận danh xưng “chất vàng mười Tây Bắc”, ông không có tên, không rõ diện mạo, người ta chỉ có thể nhận định ông thông qua công việc lái đò đầy nặng nhọc và vất vả, cái công việc mà theo như Nguyễn Tuân nhận xét ông đã làm đạt đến tầm của một nghệ sĩ, một nghệ sĩ trong công cuộc vượt thác sông Đà.

Xem thêm:  Lập dàn bài tinh thần tự học (9 Mẫu) - Download.vn

Người đàn ông ấy, đã ở tầm cái tuổi thất thập cổ lai hi, nhưng vẫn miệt mài với công cuộc lao động, giống như Nguyễn Khoa Điềm đã nói “không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng họ vẫn sống và đóng góp cho đất nước từng ngày. Ông lão hiện lên với dáng vẻ đậm mùi sông nước mênh mông, vẻ khắc khổ,“tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”.

Nói ông lái đò là một nghệ sĩ mang chất vàng mười của Tây Bắc bởi lẽ ông lão ấy không đơn thuần chỉ là một người lao động bình thường, mà ở người đàn ông này còn hiện lên hai vẻ đẹp nổi bật ấy là vẻ đẹp của một chiến binh dũng cảm trên chiến trường sông nước, ngày ngày chiến đấu giành giật miếng cơm manh áo và vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo đò ngày ngày viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động không ngừng nghỉ.

Người ta cũng phần nào tò mò, vì sao hình ảnh mà Nguyễn Tuân để ý lại là một ông lão mà không phải một thanh niên trai trẻ. Thế nhưng có câu “Lửa thử vàng gian nan thử sức”, biết bao kinh nghiệm chinh chiến trên con sông khó chiều, hung hiểm này đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, bằng trải nghiệm và bằng cả cuộc đời của ông lão, để ngày hôm nay dẫu có già cả nhưng ông lại thực sự trở thành một tay chèo đò lão luyện, nhà nghề thứ mà chẳng có thanh niên nào có được.

Hơn thế nữa, vẻ đẹp của ông lão còn đến từ sự liều lĩnh, dám nghĩ dám làm, ông bảo đã có trên dưới trăm lần ngược xuôi ở khúc sông này, và trên 60 lần cầm lái chính, thử hỏi mấy ai đã đủ dũng khí để đương đầu với sóng nước như ông? Rồi thêm vào đó cái chất vàng, chất nghệ sĩ của ông lão nó còn nằm ở lòng hăng say, niềm đam mê trong công việc lao động, ông làm không chỉ vì mưu sinh dù nó là tất yếu mà quan trọng hơn cả vẫn là ông thực sự có niềm đam mê mạo hiểm, thích cảm giác mạnh.

Ông nói: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ” thế mới thấy ông lão cũng là người nhiệt thành, dũng cảm, có tâm hồn tươi trẻ, sôi động chẳng thua kém gì ai bao giờ. Dẫu rằng cái bản tính hiếu chiến, đam mê khám phá, chinh phục gian nan thử thách ấy có nhiều lần khiến ông phải lao đao vì cái tính cáu bẳn của sông Đà, người đầy vết “củ nâu”, thế nhưng ông cũng chẳng bao giờ lùi bước, hay lấy đó làm sợ hãi mà ngày càng trở nên kiên gan lì lợm hơn cả.

Nguyễn Tuân thấu hiểu cái cá tính tính này của ông lái đò, bởi chính bản thân tác giả cũng là người có cá tính như vậy thế nên ông rất trân trọng mà ví von những vết tích “củ nâu” ấy là những “huân chương lao động siêu hạng”.

Hình ảnh ông lái đò trong lao động thực sự nổi bật khi Nguyễn Tuân cất công miêu tả cảnh chèo đò vượt thác của ông lão quả thực đó là một trận chiến không khoan nhượng khi “cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”.

Ở đây người ta thấy cái chất nghệ sĩ trong tâm hồn của ông lão chèo đò hiện lên một cách rõ rệt, hết sức nghiêm túc, tỉ mẩn, miệt mài và kiên nhẫn với công việc. Dòng sông Đà trong lòng ông đã trở thành một bản trường ca vĩ đại mà người nghệ sĩ dành hết tâm tư của cả một đời chỉ để nghiên cứu, tập dượt, sao cho nhuần nhuyễn, điệu nghệ đến mức nằm lòng “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, khắc sâu vào tâm khảm như “đóng đanh vào lòng” từng nhịp từng pháp, không thiếu đến nửa dấu.

Đồng thời dòng sông cũng lại trở thành một chiến trường quen thuộc với vị tướng đã dành cả cuộc đời để chinh phạt, nơi đó ông được phép thi triển hết bao tài năng, tâm huyết, cả thứ binh pháp ông vẫn hằng tâm niệm nhằm đối đầu với lũ đá, với những cái hút nước kinh người.

Ông lão xông pha chiến trường với tinh thần mạnh mẽ, hiên ngang, mái chèo thay đao, chiếc đò duy nhất thay cho chiến mã, dẫu đơn độc thế nhưng khí thế oai hùng của người lái đò cũng chẳng kém cạnh gì so với sự ghê gớm, dữ dội của con sông Đà. Đối mặt với những “trùng vi thạch trận” giăng mắc, ông lão cũng chẳng ngại ngần mà nắm chặt mái chèo vượt qua sự thách thức, uy hiếp của lũ đá khó nhằn.

Chinh chiến thì sau tránh khỏi thương tích có những lúc sông Đà tung đòn hiểm, người lái đò “mặt méo bệch đi” thế nhưng ông vẫn “cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái” “lên tiếng chỉ huy ngắn gọn” cho những tay lái phụ an toàn vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất. Rồi lập tức bước vào ải thứ hai, cuộc chiến giữa người và sông tựa như một bộ phim hành động mà càng về hồi sau càng trở nên gay cấn, hồi hộp.

Ải này cửa tử lại càng nhiều hơn, cửa sinh thì lệch hẳn về bên hữu ngạn, thế nhưng với ông lái đò thì đã là quen thuộc, “ông đã nắm chắc cái bình pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải này”, thế nên ông lão tự tin lấn lướt “ghì cương lái” vọt vào cửa sinh trước vẻ mặt xanh lè tức giận của lũ đá dàn trận.

Còn cửa ải cuối, cũng là cửa khó nhằn nhất, toàn cửa tử, cửa sinh nằm giữa, ông lão chỉ việc nhắm thẳng mũi đò phóng vào đó là xong ải thứ ba, rồi khải hoàn trở về xuôi xuống vùng hạ lưu. Qua ba cửa ải sinh tử ấy, người ta thấy ông lão hiện lên với bản chất dũng mãnh, lòng kiên cường đã tôi luyện cả cuộc đời của một người lính chiến, và lòng hăng say lao động, chinh phục thiên nhiên của một người nghệ sĩ điêu luyện có “bàn tay lái ra hoa”.

Người lái đò sông Đà quả là một trích đoạn xuất sắc trong tập tùy bút Sông Đà, tác phẩm tiêu biểu nhất trong trong văn đàn Việt Nam ở thể loại tùy bút, cũng như là trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở đó người ta thấy hiện lên hai hình ảnh vô cùng ấn tượng ấy là hình ảnh con sông Đà với vẻ hùng vĩ, dữ dội và kiêu ngạo, đồng thời nó cũng mang trong mình những nét uyển chuyển, mềm mại, lãng mạn.

Từ hình ảnh con sông, thì hình tượng người lái đò đã hiện lên một cách sống động, rõ nét và nổi bật với ba vai trò kéo, người lao động bình thường, người chiến sĩ dũng cảm và người nghệ sĩ với tài năng điêu luyện bậc thầy.

Phân tích người lái đò sông Đà – mẫu 2

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước năm 1945, ông ghi đậm dấu ấn trong lòng đọc giả với tập “Vang bóng một thời” và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ông vẫn có những tác phẩm mới mang những nét sáng tạo của chính mình. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu cái đẹp, ông luôn khám phá ra mọi góc cạnh của vẻ đẹp trên thế giới này. Con người và cảnh vật thiên nhiên khi vào văn chương của ông như hoá thành những công trình nghệ thuật độc đáo mà kì vĩ.

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” được rút ra từ tập tuỳ bút Sông Đà được ông sáng tác vào năm 1960. Tác phẩm này là kết quả của một chuyến đi đầy gian nan mà vô cùng hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình ảnh con sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn dọc những triền núi. Sông Đà có những dòng nước chảy xiết cùng độ dốc lớn. Chính cái nét khác biệt ấy đã tạo nên cho nó một vả đẹp hoang sơ mà hùng vĩ. Bởi cái sự hung bạo nhưng trữ tình ấy, sông Đà lại làm bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.

Ngay từ những câu mở đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác sợ hãi nhưng đê mê, vui thú với bức tranh một con sông Đà hung dữ, bạo tợn hiện lên. Điều ấy đã hiện rõ ngay trong những dòng miêu tả đầu tiên như “đá bờ sông dựng vách thành”. Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả những vách đá nơi bờ sông ấy giống như những thành trì vững trãi, kiên cố, ẩn giấu trong đó biết bao nhiêu bí mật và sự nguy hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dòng văn của ông thì độc giả lại càng ảm thấy thích thú với những cách ví von và dùng từ miêu tả về dòng sông Đà. Nhà văn đã dùng ngôn từ để vẽ ra con sông ấy, mặt sông thường “đúng ngọ” mới có mặt trời. Và khi đó thì các vách đá như “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, rồi “có quãng tưởng như cn hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia”. Tác giả đã thể hiện những liên của mình tưởng chừng như vô ý, tưởng chừng như ngẫu nhiên hiện ra thế nhưng nó lại rất hợp lý, đấy là cái tài tình của ông. Ví như động từ “chẹt”, nó giống như từ dùng trong ngôn ngữ văn nói thế nhưng khi đặt với hình ảnh “như một cái yết hầu” thì lại vô cùng ăn khớp và không có từ nào có thể thay thế được. Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của dòng Đà giang còn được thể hiện ở cái cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua vào mùa hè. Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí nơi đây, vừa tạo ra một khung cảnh đầy tráng lệ, hùng vĩ với các vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.

Xem thêm:  Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi siêu hay

Chính cái sự hung bạo của dòng sông Đà ấy đã làm nền để tôn vinh lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng của người lái đò. Cảnh hung bạo của dòng sông được khắc hoạ đậm nét ở mặt ghềnh Hát Lóong. Ông đã miêu tả dòng sông phải có đến hàng ngàn cây số là “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Chỉ một câu nhưng từ “xô” được lặp lại tới ba lần và một loạt từ với thanh sắc, điều này khiến độc giả cảm thấy cảm giác như sóng, gió và nước đang tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, một mạnh và liên hồi hơn. Qua đây, chúng ta cảm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sức mạnh của thiên nhiên sao mà khủng khiếp, lạnh lùng đến vậy. Nó “gùn ghè”, hầm hè y như những con thú hoang bạo tợn, đầy hung dữ. Nó đang giơ nanh vuốt như sẵn sàng thách thức với con người.

Vẻ đẹp hung bạo ấy còn được thể hiện ở nhưng cái “hút nước” khổng lồ ở quãng sông Tà Mường Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tuân, xoáy nước giống “như những cái giếng bê tông” được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông dùng biện pháp nhân hoá, biến cái xoáy nước ấy thành con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như một cái cống bị sặc thật sinh động, hấp dẫn. Hình như chưa có một nhà văn nào lại có thể tưởng tượng và so sánh những hình tượng này với nhau một cách độc đáo như Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói nhờ ông mà dù nhiều người chưa từng được tận mắt nhìn thấy con sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được ở khúc sông đó hiểm nguy đến nhường nào. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không có một con thuyền nào dám tới gần nếu như không muốn bị hút và dìm xuống dòng sông.

Đặc biệt ở nơi khúc thác sông Đà, cái vẻ dữ dội, đày hiểm ác ấy đã được tác giả vạch trần một cách rõ nét. Ông đã miêu tả bằng những âm thanh vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”. Ông nghe tiếng nước như có lúc đang “oán trách”, có khi lại “van xin” hay lại đầy “khiêu khích”. Có lúc nó lại rống lên như “một ngàn con trâu mộng” đang vật lộn trong lúc rừng cháy. Không những vậy, đá trên sông Đà như hợp lại thành “chân trời đá” mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ khác nhau như “ngỗ nghịh”, “nhăn nhúm”, “méo mó”… Tác giả đã dùng nhiều tính từ tả người để miêu tả khiến cho những hòn đá vô tri ấy trở nên có tâm hồn. Bởi thế mà độc giả cũng cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Đến đây chúng ta thấy được bằng trí tưởng tượng phong phú của mình thì tác giả đã biến sông Đà thành một “loài thuỷ quái khổng lồ” đầy độc ác, nguy hiểm.

Dòng sông Đà ấy không chỉ mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội mà nó còn mang trong mình vẻ đẹp trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thuỳ mị như thiếu nữ mới lớn ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở những không gian và thời gian khác nhau. Với ông, dòng sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều diễm “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo từng mùa của dòng sông như mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Không những thế trong trí tưởng của ông thì có lúc sông Đà nhẹ nhàng “như một cố nhâ”. Ông còn thấy được dòng sông mang “màu nắng tháng ba Đường thi” với bờ sông đầy những chuồn chuồn và bươm bướm bay lượn. Tác giả đã không quên mô tả hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích, miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết. Cả dòng Đà giang giờ đây còn mang trong mình những nỗi niềm hoài niệm xưa cũ.

Bên cạnh hình ảnh con sông Đà là hình ảnh nhân vật người lái đò. Nếu như thiên nhiên càng dữ dội bao nhiêu, càng bao la thì lại càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa, đức độ và trí tuệ của người lái đò. Người lái đò ấy là đại diện cho những con người lao động chăm chỉ, cần cù, kiên trì mạnh mẽ và can đảm. Phẩm chất tốt đẹp của người lái đò ấy đã được khắc hoạ một cách rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước cái dòng sông đầy nguy hiểm ấy, người lái đò phải giữ sự tỉnh táo và vững tâm mới có thể vượt qua được ma trận với những vòng thách đấu với dòng sông. Trước cái “thạch trận” ấy, ông lái đò vẫn chẳng hề có sự nao núng. Ông vẫn “giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặc dù mặt nước có hò reo, hùa nhau để bẻ gãy cán thuyền còn sóng nước thì như những “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Mặc dù nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa ông ra, còn sóng thì như bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Và rồi dù có bị thương đến mức “mặt méo bệch đi” thì ông vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái” và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi “trùng vi thạch trận”.

Qua truyện ngắn “Người lái đò sông Đà” tác giả đã xây dựng hình tượng của nhân vật người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao… Đồng thời bằng các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích đã khắc hoạ thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền thoại. “Người lái đò sông Đà” thực sự là một tác phẩm vô giá. Nó đã thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới thám hiểm vùng Tây Bắc, để được thu trọn vào tầm mắt cái vẻ đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng lại trữ tình của dòng sông này. Đồng thời, chúng ta có thể cảm nhận được ông lái đò để thêm yêu, thêm hiểu những con người gan dạ nơi đây.

15 bài văn mẫu khác mời các bạn xem trong file tải nhé

3. Lịch thi THPT Quốc Gia 2023

Xem chi tiết lịch thi: Lịch thi THPT Quốc Gia 2023

Gửi đề thi để nhận lời giải ngay: https://www.facebook. com/com.VnDoc

Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

  • Bài giảng Người Lái Đò Sông Đà
  • Giáo án Người lái đò sông Đà
  • Người lái đò sông Đà
  • Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
  • Soạn bài lớp 12: Người lái đò sông Đà
  • Tóm tắt tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
  • Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
  • Người lái đò Sông Đà có ý kiến cho rằng: “Đó là một công trình khảo cứu công phu”. Nhưng lại có ý kiến khác: “Đó là một áng văn giàu tính thẩm mĩ”.

Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập tốt hơn nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Giải bài tập Lịch Sử 12, Giải bài tập Địa Lí 12, Học tốt Ngữ văn 12, Tài liệu học tập lớp 12, Soạn bài lớp 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.